Tóm tắt :
Trước khi ăn sáng: Người không bị tiểu đường 100mg/dL= 5,6mmol/l
Người bệnh tiểu đường 70-130mg/dL ( 3,9-7,2mmol/l )
2 giờ sau bữa ăn Người không bị tiểu đường: Dưới 140 mg / dL= 7,8mmol/l
Người mắc bệnh tiểu đường: Dưới 180 mg / dL= 10mmol/l
Trước khi đi ngủ người không bị tiểu đường: 120 mg / dL=6,7mmol/l
Người mắc bệnh tiểu đường: 90-150 mg / dL ( 5,0-8,3mmol/l )
Những bệnh nhân đạt trên 6,5% là bị bệnh tiểu đường, sau đó sẽ được chỉ định điều trị dựa trên insulin hàng ngày mà họ có thể tự tiêm. Việc tiêm tác dụng nhanh có hiệu lực trong vòng 5 đến 15 phút nhưng kéo dài trong thời gian ngắn hơn từ 3 đến 5 giờ. sau 1 hoặc 2 giờ và kéo dài trong khoảng từ 14 đến 24 giờ.
Nên sử dụng tiêu chuẩn mới HbA1C từ 7% đến 8% thay vì tiêu chuẩn cũ 6.5%[/b]
Như Đại học Bác sĩ Hoa Kỳ ACP giải thích, lý do hiện tại đằng sau các khuyến nghị hiện tại về tiêu chuẩn 6,5% - hoặc dưới 7% - là việc giữ lượng đường trong máu ở mức thấp này sẽ làm giảm nguy cơ biến chứng vi mạch theo thời gian. Tuy nhiên, ACP nhận thấy rằng bằng chứng cho việc giảm như vậy là "không nhất quán".
Các triệu chứng của lượng đường trong máu cao trên 200-300mg/dL bao gồm:
Theo thời gian, lượng đường trong máu rất cao có thể dẫn đến các triệu chứng sau:
Đi tiểu thường xuyên hơn bình thường: Thận phản ứng với lượng đường trong máu cao bằng cách cố gắng loại bỏ glucose dư thừa.
Khát quá mức đi kèm với đi tiểu thường xuyên: Thận có thể gây mất nước và cảm giác khát dữ dội khi cố gắng điều chỉnh lượng đường trong máu.
Cảm thấy đói quá mức: Lượng đường trong máu cao không trực tiếp gây ra cảm giác đói. Tuy nhiên, giảm insulin hay thiếu insulin làm đường huyết tăng, thường gây ra cơn đói khi nó đi kèm với lượng đường trong máu cao.
Giảm cân không giải thích được, ngứa, da khô, mệt mỏi, khó tập trung , mờ mắt, táo bón hoặc tiêu chuẩn, rối loạn cường dương
Các triếu chứng của lượng đường trong máu thấp dưới 100mg/dL
Sự chậm trễ giữa các bữa ăn, dinh dưỡng kém, một số loại thuốc trị tiểu đường và một số điều kiện y tế có thể gây ra lượng đường trong máu thấp, gây ra ngay tức thừi những biểu hiện chóng mặt, run rẩy, rối loạn nhịp tim, hồi hộp, người lạnh, khó thở, muốn xỉu, mất ý thức, hoa mắt...nặng hơn thì động kinh, tê liệt mặt, tắc mạch máu não, đột qụy, hôn mê, tử vong, mất ngủ, chết trong đêm khi ban đêm đường huyết tụt thấp dưới 50mg/dL=2.8mmol/l. cần phải ăn ngay chất ngọt, nước ngọt, bánh kẹo hay uống đường.
Thiếu đường mãn tính do kiêng đường vì sợ bệnh tiểu đường, hay bị chẩn đoán sai về bệnh tiểu đường do bác sĩ dựa trên tiêu chuẩn đường huyết cũ năm 2010 chữa sai gây ra bệnh (bác sĩ chữa sai có tên iatrogenic ) gây ra biến chứng hơn 100 loại bệnh nan y và nặng nhất là hôn mê, tai biến, đột qụy, tử vong hay tế bào thiếu đường trở thành bệnh ung thư.
Nguyên nhân thiếu đường do :
- Uống rượu hại gan mắt khả năng chuyển hóa đường.
- Tụy tăng insulin do u tuyấn tụy.
- Dùng thuốc sai, vừa dùng thuốc hạ, vừa kiên đường, vừa bỏ ăn 1 bữa, vừa tập thêm thể dục càng làm cơ thể thiếu đường làm suy gan, thận.
- Do bệnh suy gan thận.
- Làm giảm chuyển hóa thức ăn xuống ruột, thức ăn khòng chuyển hóa thành chất bổ, gây ra bệnh bao tử, trào ngược thực quản, nhiễm trùng bao tử, ruột, thực quản.
- Ăn ít không đủ lượng thức ăn, không đủ 2500kcalo/ngày.
A- Nguyên nhân rối loạn chuyển hóa đường và hậu quả.
Nếu cơ thể tôi có đủ lượng đường và chuyển hóa đường trước và sau khi ăn, hay trước khi đi ngủ, lọt vào tiêu chuẩn mới về đường huyết, thì tôi có thể nói :Tôi đã thoát khỏi bệnh tiểu đường mà trước kia tôi bị chữa thành bệnh tiểu đường oan uổng do tập thể thầy thuốc chữa sai do quy định tiêu chuẩn đường cũ của ngành y đã bị hạ thấp.
Chính vì cơ thể thiếu đường do tiêu chuẩn cũ hạ thấp, những bệnh nhân đã bị chữa sai mới gây ra các bệnh do rối loạn biến dưỡng đường, protein, lipid.
Vì căn bản của sự sống con người nhờ vào sự sống và phát triển của hàng tỷ tế bào trong con người lúc nào cũng phải đủ 4 loại thức ăn cho tế bào là glucose, protein, lipid, oxy, để chúng chuyển hoá thành năng lượng, nhiệt lượng, sản xuất lượng máu cho não và tim tuần hoàn.
Sự chuyển hóa trong tế bào phải có glucose không thể thiếu cho cơ thể chuyển hóa thức ăn, có những phản ứng chuyển hóa giữa glucose với protein, glucose với lipid, protein với protein, protein với lipid, đo là nhiệm vụ của tế bào, nếu những chuyển hóa này không thực hiện đúng gây ra bệnh thì gọi là rối loạn chuyển hóa hay rối loạn biến dưỡng.
Như glucose kết hợp với protein mới biến thành máu, nên glucose là chất quan trọng nhất cho sự sống của con người, khoa học đã chứng minh, trong một cơ thể nặng 50kg thì lượng glucose giúp cơ thể hoạt động tốt không bị bệnh trong một ngày cần lượng đường các loại có trong thức ăn hàng ngày từ 300g-500g để tế bào làm nhiệm vụ chuyển hóa chế biến thành chất bổ nuôi cơ thể, và bộ máy chuyển hóa glucoregulatory system duy trì lượng đường trong máu giữ ở mức đúng theo tiêu chuẩn mới năm 2018, khi đói dưới 140mg/dl (7.8mmol/l), tương đương nhu cầu 300g đường, khi no dưới 180mg/dL(10.0mmol/l) tương đương nhu cầu 500g đường.
Nếu cơ thể không ăn đủ trọng lượng thức ăn ít nhất 1kg/ngày thì cơ thể không chuyển hóa đủ lượng đường để chuyển thành năng lượng nuôi tế bào, tạo ra tình trạng thiếu đường cũng gây ra hậu quả rối loạn chuyển hóa đường.
Rối loạn chuyển hóa đường khi thử bằng máy đo đường có 4 trường hợp xẩy ra :
a-Trường hợp 1 : đường huyết đo lúc nào cũng cao mặc dù đang chữa trị
b-Trường hợp 2 : đường huyết đo lúc nào cũng thấp mặc dù đang chữa trị
c-Trường hợp 3 : đường huyết thất thường, cao quá hay thấp quá bất thường.nghịch lý như khi Đói thì cao, khi No thì thấp, rối loạn trong trường hợp này là sau khi uống đường xong thì đường không tăng lên mà lại tụt thấp hơn, hay ngược lại đo đường rất cao trên 500mg/dl , đang phải tiêm insulin 4 lần/ngày mà đường huyết không xuống, nhưng uống 10 thìa đường cát vàng, bỏ tiêm, thì đo đường huyết không tăng mà lại giảm xuống 100mg/dl, đo đường chỉ còn 400mg/dL...
d-Trường hợp 4: Đường ketone thay đường glucose.
Ketone là một lớp hợp chất hữu cơ được tạo ra khi cơ thể đốt cháy chất béo để lấy năng lượng. Cơ thể sử dụng các chất dinh dưỡng để tạo ra năng lượng bao gồm carbohydrate, chất béo và protein. Carbohydrate sẽ được cơ thể sử dụng trước, nhưng nếu không có sẵn, cơ thể sẽ chuyển sang đốt cháy chất béo, và ketone sẽ được sản xuất vào lúc này.
Hiện nay vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng về lợi ích của chế độ ăn kiêng keto, bên cạnh đó, chúng ta có thể gặp một số rủi ro như tăng nồng độ acid trong máu, suy giảm cơ bắp và cơ thể gầy ốm...trong khi tế bào vẫn thiếu đường glucose, nên mới xẩy ra tình trạng rối loạn đường huyết đo được là đường ketone thấy thấp tưởng là mừng vì đường huyết được hạ thấp, mà thật ra tế bào trong cơ thể vẫn thiếu đường glucose so với tiêu chuẩn mới về đường huyết, hậu quả suy tim, gan, thận và ung thư.
Giải thích:
Trường hợp 1: Nguyên nhân do cơ thể thiếu insulin nội, nên sau khi vừa ăn xong uống 1 viên Mướp Đắng (bitter melon) trong có chứa chất insulin thiên nhiên, vào cơ thể chung với thức ăn sẽ được tế bào tụy chuyển hóa thành insulin nội để dẫn đường theo máu vào nuội tế bào, thì đường trong máu giảm.
Trường hợp 2: Có hai nguyên nhân làm rối loạn, do kiêng không ăn đường đối với người không bị bệnh tiểu đường, nên đường thấp hậu quả là không có đường nuôi tế bào.
Có ăn đường nhưng dùng thuốc hạ đường liều cao làm tụt đường trong máu, và nguy hại hơn nữa vừa không ăn đường, cơ thể phải xuất đường dự trữ glycogen cho tăng lên để cân bằng đường huyết tạm thời thì lại bị mất đường trong máu do dùng thuốc hạ đường theo tiêu chuẩn thấp, gây ra rối loạn đường huyết làm cơ thể thiếu ̣đường nuôi thần kinh não gây ra hậu qủa nghiêm trọng.
Trường hợp 3: Chúng ta có thể có các triệu chứng của lượng đường trong máu thấp nếu lượng đường trong máu của chúng ta giảm từ mức cao xuống mức thấp hơn. Ví dụ: nếu lượng đường trong máu của chúng ta cao hơn 17,0 mmol/l trong một tuần, hoặc mức đó đột ngột giảm xuống còn 5,0 mmol/l, chúng ta có thể có các triệu chứng của lượng đường trong máu thấp mặc dù lượng đường trong máu của chúng ta nằm trong phạm vi tiêu chuẩn . Nhưng nếu chúng ta bị tiểu đường trong nhiều năm, chúng ta có thể không có triệu chứng hạ đường huyết cho đến khi lượng đường trong máu rất thấp.
Như vậy nguyên nhân rối loạn đường huyết mà chúng ta thấy được ở trường hợp 1 và 2 do tiêu chuẩn đường huyết năm 2010 ngành y hạ thấp dưới 126mg/dL(7.0mmol/l) , đã gây rối loạn đường huyết do sai lầm của tập thể các thầy thuốc chữa bệnh đã dựa vào tiêu chuẩn thấp này khiến cho hàng triệu người bỗng nhiên bị bệnh tiểu đường, và theo tiêu chuẩn mới 2018 thì trên nguyên tắc không bị bệnh tiểu đường nhưng đã gây rối loạn đường huyết trường hợp 3 và 4 rồi.
Trường hợp 4: Tình trạng nhiều ketone trong máu sẽ dẫn đến nguy cơ phát triển nhiễm toan ceton do đái tháo đường (DKA =diabetic ketoacidosis), máu trở nên quá acid khiến người bệnh có thể mất ý thức, thậm chí có nguy cơ tử vong. chúng ta có thể cần phải xét nghiệm ketone nếu có những dấu hiệu như mệt mỏi, buồn nôn, khô miệng
Đường Ketone do ăn kiêng đường, nên cơ thể hết đường glucose, và hết đường dự trữ glycogen, không có glucose để chuyển hóa thức ăn thành máu và không có glucose cung cấp cho não và tim hoạt động, do kiêng đường hay dùng thuốc hạ đường liều cao làm cơ thể mất đường phải chuyển hóa mỡ thành đường ketone biến đổi thành glucose, nhưng tế bào không nhận đường này, nên tế bào vẫn bị bệnh thiếu đường làm suy não suy tim, vì 2 cơ quan này chỉ nhấn đường glucose với pH dương, các loại đường khác thuộc tính acid, thử pH nước bọt âm nên cơ thể dư thừa đường ketone gọi là nhiễm toan acétone hay nhiễm acid cétone, trong máu nhiều acid, tế bào nhiễm acid sẽ trở thành tế bào ung thư.
Nếu chúng ta không tin là cơ thể chúng ta bí rối loạn đường huyết do thay đổi tiêu chuẩn đường trong việc điều trị bệnh tiểu đường sai, chúng ta hãy vào google tìm chữ :
Symptoms of glucose disorder
Dấu hiệu rối loạn đường huyết thấp.
Hội chứng thiếu hụt vận chuyển glucose loại 1 (Glucose type 1 viết tắt là Glut1) là một rối loạn chuyển hóa di truyền hiếm gặp, đặc trưng bởi sự thiếu hụt protein cần cho glucose (một loại đường đơn giản) để vượt qua hàng rào máu não. Triệu chứng phổ biến nhất là co giật (động kinh), thường bắt đầu trong vài tháng đầu đời cho trẻ em mới sinh.
Dấu hiệu và triệu chứng
Các triệu chứng và mức độ thiếu hụt glut1 nghiêm trọng có thể thay đổi đáng kể, các trường hợp nhẹ có thể không được chẩn đoán, trong khi các trường hợp khác có khả năng dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, suy nhược gây ra động kinh, có 5 loại động kinh khác nhau có thể xảy ra bao gồm :
Loại 1: Co giật tonic-clonic tổng quát (từng được gọi là co giật grand mal), thường kéo dài một phút hoặc hơn và được đặc trưng bởi co rút gồng cứng chân tay (giai đoạn bổ) và sau đó lặp đi lặp lại co giật của chân tay và mặt (giai đoạn clonic). Co giật tonic-clonic tổng quát có thể khiến mọi người trong giây lát mất ý thức, cắn môi hoặc chảy nước dãi.
Loại 2: Co giật cơ tim được đặc trưng bởi các cơn co thắt cơ ngắn gây ra các cử động bất thường co giật.
Loại 3: Động kinh vắng mặt là động kinh không co giật nhưng trong một thời gian ngắn của vô thức thường được đánh dấu bằng cách nhìn chằm chằm không phản ứng thường bắt đầu và kết thúc đột ngột và họ lại tiếp tục hoạt động mà không có ký ức về những gì đã xẩy ra nên có thể bị hiểu sai là những người đang mơ mộng.
Loại 4: Còn co giật Atonic gây mất trương lực cơ đột ngột và khập khiễng, bỗng nhiên co giật đầu hay ngã bất ngờ có thể dẫn đến chấn thương đầu và mặt. Trong thế ngồi có thể ngã về phía trước hoặc phía sau ở thắt lưng. Động kinh Atonic có thể chỉ ảnh hưởng một phần đến ý thức và thường chỉ kéo dài trong vài giây.
Loại 5: Động kinh không được phân loại rõ ràng không phù hợp với bất kỳ loại động kinh tiêu chuẩn nào.
Các triệu chứng khác có liên quan đến hội chứng thiếu Glut1 bao gồm giảm tốc độ tăng trưởng đầu. Trẻ em bị động kinh do cha mẹ kiêng đường, có đường huyết thấp nên con sinh ra thiếu glut1 trong khi mang khi trẻ sinh ra có thể phát triển sự chậm trễ hoặc cuối cùng phát triển thành bệnh microcephaly = là loại bệnh có đầu nhỏ hơn so với bình thường về tuổi và giới tính.
Những người mắc hội chứng thiếu Glut1 cũng có thể phát triển các triệu chứng liên quan đến rối loạn vận động bao gồm giảm trương lực cơ khi hạ huyết áp, không thể phối hợp các cử động tự nguyện (mất điều hòa), co thắt cơ bắp không tự nguyện dẫn đến chậm, cứng khớp (co cứng) và loạn trương lực.
Một nhóm các rối loạn cơ nói chung được đặc trưng bởi các cơn co thắt cơ bắp không tự nguyện buộc cơ thể trở nên bất thường, đôi khi đau đớn, các tư thế cử động có tên bệnh là Dystonia. Rối loạn vận động liên quan đến hội chứng thiếu Glut1 có thể gây khó khăn khi đi lại. Những khó khăn như vậy có thể là một vấn đề liên tục hoặc có thể lúc có lúc không.
Những bệnh nhân bị hội chứng thiếu Glut1 cũng phát triển các mức độ suy giảm nhận thức khác nhau, có thể từ khuyết tật học tập nhẹ đến khuyết tật trí tuệ nghiêm trọng. Một số mức độ suy giảm ngôn ngữ và lời nói, g có thể gặp khó khăn khi nói do những bất thường ảnh hưởng đến các cơ cho phép nói (rối loạn nhịp) và gián đoạn của lời nói (rối loạn chức năng), được đánh dấu bằng việc tạm dừng hoặc ngắt quãng thường xuyên khi nói.
Các triệu chứng khác gồm rối loạn tâm thần, thờ ơ, buồn ngủ, lặp đi lặp lại, bất thường, chuyển động mắt và đầu nhanh chóng theo cả hai chiều ngang và dọc, liệt một bên của cơ thể, tê liệt cơ thể, và đau đầu tái phát. Rối loạn giấc ngủ như ngưng thở khi ngủ, mệt mỏi hoặc khi nhịn ăn quên ăn, không muốn ăn một thời gian lâu, qúa bữa sẽ có cử động mắt bất thường, như co giật, thường xuất hiện ở trẻ sơ sinh
Nguyên nhân do sự bất thường của việc vận chuyển glucose lên não. Glucose là một nguồn nhiên liệu chính cho quá trình chuyển hóa não. Nếu cơ thể không thể vận chuyển đủ lượng glucose qua hàng rào máu não. Không có mức glucose thích hợp, não không thể phát triển và hoạt động bình thường.
Động kinh là một nhóm các rối loạn thần kinh đặc trưng bởi các cơn động kinh tái phát và liên quan đến sự phóng điện bất thường trong não, gây ra mất ý thức, co giật, co thắt, rối loạn cảm giác và rối loạn trong hệ thống thần kinh tự trị.
Ngược lại tây y cho rằng biến chứng của lượng đường trong máu cao có thể gây ra hôn mê và tử vong nhưng chưa thấy báo cáo thống kê nào. Theo thời gian, lượng đường trong máu cao có thể làm mờ mắt chứ không phải mù mắt khi đường huyết thấp, đường huyết cao làm tim phổi thận nóng làm khát nước uống nhiều, làm mệt thận thải nước tiểu nhiều là chúng ta đã biết đường cao rồi thì áp huyết cũng tăng cao, thì ngưng bớt ăn đường, thì làm gì mà dẫn đến hôn mê chết người, đó chỉ là cách hù dọa, thực ra hôn mê chết người là do áp huyết tăng cao.
Nguyên nhân rối loạn chuyển hóa do lượng đường trong máu thấp (hạ đường huyết)
Lượng đường trong máu thấp xảy ra khi mức đường (glucose) trong máu giảm xuống dưới 100mg/dL mức mà cơ thể chúng ta cần, do không ăn đủ thực phẩm hoặc bỏ bữa, uống quá nhiều thuốc (insulin hoặc thuốc), tập thể dục nhiều hơn bình thường hoặc dùng một số loại thuốc làm giảm lượng đường trong máu có thể khiến lượng đường trong máu của chúng ta giảm nhanh chóng. Uống rượu cũng làm cho lượng đường trong máu thấp.
Những người giảm cân như ăn gạo lức muối mè, hay ăn theo chế độ keto chỉ dùng rau thì lượng đường trong máu của họ có thể giảm quá thấp hưn tiêu chuẩn tưởng là tốt, ai có ngờ đâu tế bào thiếu đường sẽ không nuôi não, mạnh tim, và không hấp thụ chuyển hóa thức ăn nuôi tế bào phát triển gây ra các biến chứng do hậu quả thiếu đường không đúng tiêu chuẩn mới củ đường huyết năm 2018.
Dù chúng ta không tin vào tiêu chuẩn đường huyết, nhưng cũng không nên tin vào máy đo đường khi đo đường vẫn chỉ đường huyết cao, dù không ăn đường và vẫn uống thuốc hay tiêm insulin, mà cơ thể vẫn có những dấu hiệu bệnh sau đây chính là dấu hiệu cơ thể đang thiếu đường glucose mới gây ra những hậu quả này :
Khi chúng ta có dấu hiệu mệt mỏi, lo lắng, yếu, run rẩy hoặc đổ mồ hôi, và chúng ta có thể có nhịp tim nhanh. Chúng ta hiểu ngay là đường huyết tụt thấp là phải ngưng áp dụng phương pháp Keto mặc dù đo đường huyết thấy cao theo tiêu chuẩn cũ mà thật ra lại thấy thấp theo tiêu chuẩn mới, chúng ta phải thắc mắc không còn ăn đường tại sao đo đường huyết lại cao, là vì cơ thể thiếu đường glucose, hết đường glycogen dự trữ, thì cơ thể chuyển hóa mỡ thành đường keto làm cơ thể gầy ốm, mà thực ra đo đường huyết cao này không phải là đường glucose mà cơ thể cần, nên bị rối loạn đường huyết chuyển hóa dang acétone gây ra ung thư gan, và suy thận hay ung thư thận do chế độ ăn kiêng keto.
B- Disorders of Protein Metabolism
Nguyên nhân rối loạn chuyển hóa protein liên quan đến glucose và hậu quả.
Kiến thức về GRP (Glucose regulared protein, gọi là đường chuyển hóa protein)
Người ta dự đoán rằng GRP sẽ có những đóng góp đặc biệt trong các lĩnh vực sinh học tế bào cơ bản, công nghệ sinh học và sinh học ung thư.
Tương tác protein-protein (PPI, protein-protein interaction) là cơ sở của các chức năng sinh học.
Rối loạn di truyền của homocysteine (Hcy=Homocysteine là một phân tử gồm 20 amino acid là các phân tử cần để cơ thể tổng hợp tất cả protein). Vì homocysteine không thể được lấy từ thức ăn nên nó phải được tổng hợp từ các amino acid khác, chẳng hạn như methionine (có trong thịt, cá và các chế phẩm từ sữa). Vitamin B6 (pyridoxine), vitamin B12 và folic acid cũng cần để giúp các phản ứng này xảy ra.) hoặc chuyển hóa folate (hay axít Folic là vitamin B9, là một dạng vitamin hỗn hợp nhóm B hòa tan trong nước. Folate có nhiều trong các loại thịt đỏ, gan, lòng đỏ trứng và rau có màu xanh đậm như rau muống, rau bó xôi, súp lơ, bông cải xanh…), các loại ngũ cốc và đậu (đậu đũa, đậu xanh, đậu tương, đậu Hà Lan… ) hoặc chế độ ăn uống có hàm lượng methionine cao là acid amin có chứa lưu huỳnh, công dụng để chuyển hóa protein, làm tăng Hcy huyết tương và chất chuyển hóa gây xơ vữa động mạch .
Tăng glucose máu do chế độ ăn uống hoặc di truyền dẫn đến thay đổi bệnh lý gan hoặc não và tăng tốc độ xơ vữa động mạch
Ngược lại một loạt các bệnh khác là do thiếu protein đột biến có thể hình thành bệnh lú lẫn mất trí nhớ Alzheimer; các bệnh gây ra bởi sự thống trị tiêu cực từ các protein cấu trúc không khớp, chẳng hạn như bệnh cơ tim phì đại, và các rối loạn trong đó protein bị sai lệch bị suy giảm bởi các emzyme phân hủy prrotein nội bào.
Carbohydrate Metabolism Disorders
Rối loạn chuyển hóa trao đổi chất từ thực phẩm
Trao đổi chất là quá trình cơ thể sử dụng để tạo ra năng lượng từ thực phẩm ăn vào. Thực phẩm được tạo thành từ protein, carbohydrate và chất béo. Hóa chất trong hệ thống tiêu hóa là enzyme phá vỡ các thành phần thực phẩm thành đường và acid. Cơ thể có thể sử dụng nhiên liệu này ngay lập tức, hoặc nó có thể lưu trữ năng lượng trong các mô cơ thể.
Rối loạn chuyển hóa carbohydrate là một nhóm các rối loạn chuyển hóa. Thông thường các enzyme phá vỡ carbohydrate thành glucose (một loại đường). Nếu có một trong những rối loạn này, có thể không có đủ enzyme để phá vỡ carbohydrate. Hoặc các enzyme có thể không hoạt động đúng. Điều này gây ra một lượng đường có hại tích tụ trong cơ thể tạo ra đường huyết cao.
Những rối loạn này được di truyền. Nếu có tiền sử gia đình mắc một trong những rối loạn này, cha mẹ có thể được xét nghiệm di truyền để xem liệu họ có mang gen di truyền hay không. Các xét nghiệm di truyền khác có thể cho biết thai nhi có bị rối loạn hoặc mang gen gây rối loạn hay không.
Các khuyến nghị về chế độ ăn uống cũ hạn chế đường trong chế độ ăn dành cho bệnh nhân tiểu đường, nhưng các hướng dẫn mới gần đây cho phép một lượng đường vừa phải, miễn là các carbohydrate khác được giảm trong cùng một bữa ăn. Chế độ ăn uống và tập thể dục cũng được sử dụng để kiểm soát bệnh tiểu đường.
Chrome có trong rau cải xoong là nguyên tố vi lượng là một chất kích hoạt proinsulin thành insulin và rất quan trọng đối với sự dung nạp glucose. Trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng, bị suy yếu dung nạp glucose đã được chứng minh là có lợi từ chrome bổ sung, như vậy có thể rau cải xoong có ảnh hưởng làm hạ đường huyết vì nó kích hoạt insulin hoạt động.
Nếu bệnh nhân tiểu đường lạm dụng tiêm quá nhiều insulin do bác sĩ chỉ định, đường huyết có thể giảm xuống mức thấp nguy hiểm, có biểu hiệu sự khó chịu, run rẩy, đổ mồ hôi, đau đầu và nhầm lẫn xảy ra là do tụt thấp đường glucose, nhưng thừa đường trái cây và tinh bột trong máu, mà gan đã suy không dung nạp thành đường dự trữ glucogen, nên đo đường huyết vẫn cao đến 400-500mg/dL trong khi vẫn tiêm insulin 4 lần/ngày mà đường này không giảm xuống. Trong khi cơ thể thiêu đường glucose nặng, nếu không được bổ sung, có thể dẫn đến co giật, hôn mê và thậm chí tử vong.
Hạ đường huyết phản ứng có nguồn gốc không phải bị bệnh tiểu đường là một rối loạn chuyển hóa carbohydrate khác biệt, trong đó glucose trong máu giảm quá mức dưới 50 mg/dl sau khi sản xuất quá mức insulin của cơ thể để đáp ứng với một bữa ăn nhiều đường thì triệu chứng hạ đường huyết xảy ra đồng thời.
Nhiều rối loạn chuyển hóa di truyền, còn được gọi là lỗi chuyển hóa bẩm sinh, đáp ứng với điều trị chế độ ăn uống. Hầu hết các rối loạn tương đối hiếm gặp này được di truyền như các đặc điểm tặng tự phát (nghĩa là cả hai cha mẹ đều phải là người mang mầm bệnh.
B- Nguyên nhân rối loạn chuyển hóa lipid liên quan đến glucose và hậu quả.
Thiếu acid béo lipid gây ra bệnh :
Nhịp tim đập chậm hơn 27 nhịp/1 phút, bạn sẽ cảm thấy chóng mặt, bất tỉnh, tim ngừng đập. Trong trường hợp nặng hơn có thể bị loạn nhịp tim, đột tử.
Thiếu chết béo bị giảm cân, làm hạ nhiệt độ cơ thể nên bị lạnh, giảm hoặc ít trứng và tinh trùng, loãng xương, thiếu sụn, da xấu khô, thiếu hụt vitamines, thiếu tập trung, tăng nguy cơ ung thư ruột, ung thư vú hay ung thư tuyến tiền liệt.
Thừa lipid gây ra bệnh :
Gây nguy cơ cao mắc các bệnh về tim mạch, xơ vữa động mạch và tắc huyết khối, béo phì, sỏi mật, xơ gan, viêm túy,
Theo nghiên cứu của tác giả Bernard SF1, Orvoine J, Groscolas R. :
Nghiên cứu này nhằm xác định xem glucose có can thiệp vào quá trình điều hòa chuyển hóa lipid không.
Glucose điều chỉnh chuyển hóa lipid (ức chế quá trình lipol hóa và/hoặc oxy hóa) và ảnh hưởng đến tình trạng nội tiết tố khác nhau ở những người bị căng thẳng so với những người không bị căng thẳng.
Lipid trong thực phẩm chuyển hóa thành cholesterol, triglycerid là thành phần thiết yếu của màng tế bào, tế bào não và thần kinh và mật, giúp cơ thể hấp thụ chất béo và vitamin tan trong chất béo. Cơ thể sử dụng cholesterol để tạo ra vitamin D và các loại hormone khác nhau, chẳng hạn như estrogen, testosterone và cortisol. Cơ thể có thể sản xuất tất cả cholesterol mà nó cần, nhưng nó cũng thu được cholesterol từ thực phẩm.
Triglycerid, có trong các tế bào mỡ, có thể bị phá vỡ, sau đó được sử dụng để cung cấp năng lượng cho các quá trình trao đổi chất của cơ thể, bao gồm cả sự tăng trưởng. Triglycerid được sản xuất trong ruột và gan từ các chất béo nhỏ hơn gọi là acid béo. Một số loại acid béo được tạo ra bởi cơ thể, nhưng những loại khác phải được lấy từ thực phẩm.
Chất béo, chẳng hạn như cholesterol và triglycerid, không thể lưu thông tự do trong máu, vì máu chủ yếu là nước. Để có thể lưu thông trong máu, cholesterol và triglycerid được đóng gói với protein và các chất khác để tạo thành các hạt gọi là lipoprotein.
Có nhiều loại lipoprotein khác nhau. Mỗi loại có một mục đích khác nhau và được chia nhỏ và bài tiết theo một cách hơi khác nhau. Lipoprotein bao gồm :
Chylomicron là lipoprotein có kích thước lớn nhất và hàm lượng triglycerid cao, chia làm 3 loại :
Lipoprotein mật độ rất thấp (very low density lipoprotein =VLDL)
Lipoprotein mật độ thấp vừa (low=LDL)
Lipoprotein mật độ cao (high=HDL)
Cholesterol được vận chuyển bởi LDL được gọi là cholesterol LDL, và cholesterol được vận chuyển bởi HDL được gọi là cholesterol HDL.
Cơ thể có thể điều chỉnh nồng độ lipoprotein (đó là mức lipid) bằng cách tăng hoặc giảm tốc độ sản xuất lipoprotein. Cơ thể cũng có thể điều chỉnh tốc độ lipoprotein xâm nhập và được loại bỏ khỏi máu.
Mức độ cholesterol và chất béo trung tính thay đổi đáng kể theo từng ngày. Từ lần đo này đến lần đo tiếp theo, mức cholesterol có thể thay đổi khoảng 10% và mức chất béo trung tính có thể thay đổi tới 25%.
Mức độ lipid có thể là
Quá cao (rối loạn lipid máu)
Quá thấp (hạ đường huyết)
Mức lipid có thể trở nên bất thường do những thay đổi xảy ra khi lão hóa, các rối loạn khác nhau (bao gồm cả di truyền), sử dụng một số loại thuốc hoặc lối sống (như ăn chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, không hoạt động thể chất hoặc thừa cân).
Lipoprotein: Biểu tượng vận chuyển lipid
Biến chứng nồng độ lipid bất thường
Nồng độ lipid bất thường (đặc biệt là cholesterol) có thể dẫn đến các vấn đề lâu dài, chẳng hạn như xơ vữa động mạch. Nói chung, mức cholesterol toàn phần cao (bao gồm cholesterol LDL, HDL và VLDL), đặc biệt là mức cholesterol LDL ("xấu") cao, làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch và do đó có nguy cơ bị đau tim hoặc đột quỵ. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại cholesterol đều làm tăng nguy cơ này. Nồng độ cholesterol HDL ("tốt") cao có thể làm giảm nguy cơ và ngược lại, mức cholesterol HDL thấp có thể làm tăng nguy cơ.
Ảnh hưởng của mức độ chất béo trung tính triglycerid gây nguy cơ đau tim là ít rõ ràng hơn. Nhưng nồng độ triglycerid rất cao (cao hơn 500 mg/dL) có thể làm tăng nguy cơ viêm tụy.
What Is Hyperlipidemia?
Chúng ta gọi nó là cholesterol cao. Bác sĩ gọi đó là tăng lipid máu.
Mục tiêu là giảm mức cholesterol có hại. Làm như vậy sẽ giảm nguy cơ mắc bệnh tim, đau tim, đột quỵ và các vấn đề khác.
Cholesterol, một chất sáp, là một loại chất béo mà cơ thể chúng ta tạo ra. Nó cũng có thể đến từ những gì chúng ta ăn.
Thực phẩm có cholesterol, chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa có thể làm tăng mức cholesterol trong máu của chúng ta. Bao gồm các:
Phô mai, lòng đỏ trứng, thực phẩm chế biến, chiên xào, kem, bánh ngọt, thịt đỏ.
Ít tập thể dục có thể dẫn đến việc tăng cân, có thể làm tăng cholesterol của chúng ta.
Khi chúng ta già đi, mức cholesterol của chúng ta cũng thường tăng lên.
Triệu chứng và rủi ro
Cholesterol, cùng với triglycerid và các chất béo khác, có thể tích tụ bên trong các động mạch của chúng ta. Điều này làm cho các mạch máu hẹp hơn và khiến máu khó đi qua hơn. Huyết áp của chúng ta có thể tăng lên.
Sự tích tụ cũng có thể gây ra cục máu đông hình thành. Nếu cục máu đông vỡ ra và đi đến tim của chúng ta, nó sẽ gây ra cơn đau tim. Nếu nó đi đến não của chúng ta, nó có thể gây tắc máu não, bướu não, đột quỵ.
Cholesterol HDL là "cholesterol tốt", du hành trên dòng máu nó loại bỏ cholesterol xấu có hại. Mức HDL cao làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim - nhưng mức độ thấp làm tăng nguy cơ bệnh tim.
Điều gì làm cho cholesterol HDL tốt như vậy?
HDL là viết tắt của lipoprotein mật độ cao. Mỗi bit cholesterol HDL là một đốm màu siêu nhỏ bao gồm một vành lipoprotein bao quanh một trung tâm cholesterol. Hạt cholesterol HDL đậm đặc so với các loại hạt cholesterol khác, vì vậy nó được gọi là mật độ cao.
Cholesterol không phải tất cả là xấu. Trên thực tế, cholesterol là một chất béo thiết yếu. Nó cung cấp sự ổn định trong mọi tế bào của cơ thể chúng ta.
Để đi qua dòng máu, cholesterol phải được vận chuyển bởi các phân tử trợ giúp gọi là lipoprotein. Mỗi lipoprotein có sở thích riêng về cholesterol và mỗi loại hoạt động khác nhau với cholesterol mà nó mang theo.
Các chuyên gia tin rằng cholesterol HDL có thể hoạt động theo nhiều cách hữu ích có xu hướng làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim:
HDL làm giảm, tái sử dụng và tái chế cholesterol LDL bằng cách vận chuyển nó đến gan, nơi nó có thể được xử lý lại.
Cholesterol HDL hoạt động như một đội bảo trì cho các lớp vỏ bên trong tế bào (nội mạc) của các mạch máu. Tổn thương các lớp vỏ bên trong mạch máu là bước đầu tiên trong quá trình xơ vữa động mạch, gây ra các cơn đau tim và đột quỵ. HDL giữ cho vách thành mạch máu sạch sẽ và giữ cho nó khỏe mạnh
Mức độ tốt cho cholesterol HDL là gì?
Nồng độ cholesterol HDL lớn hơn 60 mg/dL là cao. Điều đó thật tốt.
Nồng độ cholesterol HDL dưới 40 mg / dL là thấp. Điều đó không tốt lắm.
Nhìn chung, những người có HDL cao có nguy cơ mắc bệnh tim thấp hơn. Những người có HDL thấp có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn.
Nếu HDL của chúng ta thấp, chúng ta có thể thực hiện một số bước để tăng mức HDL và giảm nguy cơ mắc bệnh tim:
Tập thể dục . Tập thể dục nhịp điệu trong 30 đến 60 phút vào hầu hết các ngày trong tuần có thể giúp tăng HDL.
Từ bỏ hút thuốc . Khói thuốc lá làm giảm HDL, và bỏ thuốc lá có thể làm tăng mức HDL.
Giữ một trọng lượng khỏe mạnh. Bên cạnh việc cải thiện mức HDL, tránh béo phì làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim và nhiều tình trạng sức khỏe khác.
Hypolipidemia
Nồng độ lipid thấp
Có thể là kết quả của các bất thường di truyền hiếm gặp hoặc các rối loạn khác.
Những người có những bất thường di truyền này có thể phát triển kém và bị thiểu năng trí tuệ.
Một số bất thường di truyền được điều trị bằng việc bổ sung chất béo, vitamin E và các vitamin tan trong chất béo khác (vitamin A, D và K).
Mức lipid thấp hiếm khi gây ra vấn đề tuyến giáp hoạt động quá mức (cường giáp), thiếu máu, suy dinh sưỡng, ung thư, nhiễm trùng mãn tính như viêm gan C, kém hấp thụ tiêu hóa, nên trong nhu động ruột lại chứa chất béo, thấy biết được khi đi cầu phân bị nhờn nổi trong nước có mùi hôi, thoái hóa võng mạc gây mù, tổn thương hệ thần kinh trung ương khiến sinh bệnh thiểu năng trí tuệ.
Điều trị bằng bổ sung chất béo và vitamine A,D,K
Đánh giá đầy đủ/sửa đổi lần cuối tháng 9 năm 2018 bởi Anne Carol Goldberg, MD
Tìm ra loại bệnh mang tên Amyloidosis là khi một protein bất thường gọi là amyloid tích tụ trong các mô và cơ quan của chúng ta.
Các loại amyloidosis khác nhau bao gồm:
AL= amyloidosis (amyloidosis là một nhóm bệnh trong đó các protein bất thường, được gọi là sợi amyloid, tích tụ trong mô. còn immunoglobulin, là các phân tử kháng thể, do các tế bào lympho B cũng như các tương bào tiết ra để hệ miễn dịch nhận biết và vô hiệu hóa các tác nhân lạ, chẳng hạn các vi khuẩn hoặc virus. Mỗi kháng thể chỉ có thể nhận diện một epitope là 1 kháng nguyên duy nhất. Đây là loại phổ biến nhất và được gọi là amyloidosis nguyên phát. nó xảy ra khi tủy xương của chúng ta tạo ra các kháng thể bất thường có thể bị phá vỡ. Nó liên kết với một bệnh ung thư máu gọi là đa u tủy. Nó có thể ảnh hưởng đến thận, tim, gan, ruột và dây thần kinh..
Bệnh amyloidosis liên quan đến lọc máu (DRA). Điều này phổ biến hơn ở người lớn tuổi và những người đã chạy thận được hơn 5 năm. Dạng amyloidosis này được gây ra bởi sự lắng đọng của microglobulin beta-2 (gọi là B2M là một loại dấu hiệu khối u. Các dấu hiệu khối u là các chất được tạo ra bởi các tế bào ung thư hoặc bởi các tế bào bình thường để đáp ứng với ung thư trong cơ thể. B2M được tìm thấy trên bề mặt của nhiều tế bào và được giải phóng vào cơ thể. Những người khỏe mạnh có một lượng nhỏ B2M trong máu và nước tiểu của họ.
Những người bị ung thư tủy xương và máu thường có nồng độ B2M cao trong máu hoặc nước tiểu. Những bệnh ung thư bao gồm đa u tủy, u lympho và bệnh bạch cầu. Nồng độ B2M cao trong dịch não tủy có thể có nghĩa là ung thư đã lan đến não và/hoặc tủy sống.. ) nó tích tụ trong máu, tích tụ trong nhiều mô khác nhau, nhưng nó thường ảnh hưởng nhất đến xương, khớp và gân, liên quan đến cả da, xẩy ra trên khắp cơ thể, và liên quan đến bệnh mất trí nhớ... gọi chung là bệnh ung thư có tên gọi đa u tủy
Amyloidosis cũng có thể xảy ra ở những người bị bệnh thận giai đoạn cuối đang chạy thận trong một thời gian dài
Các dấu hiệu bệnh đa u tủy như:
Thay đổi màu da, mệt mỏi nặng, cảm giác no, đau khớp, thiếu máu lượng hồng cầu thấp, khó thở, sưng lưỡi, đau nhói và tê ở chân và bàn chân, tay cầm yếu, giảm cân đột ngột, vách thành tim mạch cứng, cơ tim yếu làm thay đổi nhịp tim nên máu chảy vào tim ít hơn, khiến tim không còn bơm bình thường gây tức ngực khó thở dẫn đến suy tim sẽ sưng chân, bàn chân ,mắt cá chân và bọng mắt quanh mắt, thận yếu không còn khả năng lọc thận, độc tố tích tụ trong thận.
Amyloidosis đường tiêu hóa
Amyloid tích tụ dọc theo đường tiêu hóa (GI) của chúng ta làm chậm sự di chuyển của thức ăn qua ruột cản trở tiêu hóa nên không hấp tú được chất bổ, có dấu hiệu tiêu chảy, thèm ăn, buồn nôn, đau bụng, giảm cân
Amyloidosis. thần kinh:
Làm hỏng các dây thần kinh ngoại biên và tủy sống, thần kinh ngoại biên mang thông tin giữa não và tủy sống và các phần còn lại của cơ thể. Ví dụ, chúng làm cho bộ não của chúng ta cảm thấy đau nếu chúng ta bị bỏng tay hoặc đốt ngón chân.
Dấu hiệu bệnh mất cân bằng, bệnh bàng quang và ruột mất kiểm soát, đổ mồ hôi, đau nhức, đau đầu khi đứng do xáo trộn áp huyết
Amyloidosis gây thiệt hại cho tim, gan, lá lách, có thể gây tử vong, đặc biệt là nếu nó ảnh hưởng đến tim hoặc thận..
Thrombocytopenia Giảm tiểu cầu
"Thrombocytes" là tiểu cầu, "penia" là không đủ.
Nguyên nhân do cơ thể bị nhiễm trùng, và cũng do hậu quả của thuốc kháng sinh. Nếu chúng ta bị giảm tiểu cầu, chúng ta không có đủ tiểu cầu trong máu để chống ḷại bệnh tật. Tiểu cầu giúp cầm máu làm đông máu.
Một người khỏe mạnh thường có số lượng tiểu cầu từ 150.000-400.000. chúng ta bị giảm tiểu cầu nếu số lượng của chúng ta dưới 150.000.
Đối với hầu hết mọi người, nó không phải là một vấn đề lớn. Nhưng nếu giảm tiểu cầu nghiêm trọng, chúng ta có thể chảy máu tự nhiên ở mắt, nướu hoặc bàng quang hoặc chảy máu quá nhiều khi chúng ta bị thương.
Những nguyên nhân làm giảm tiểu cầu do:
Nhiễm virus như thủy đậu, viêm gan C, bệnh Lupus ban đỏ, bệnh bạch cầu mãn tính, giảm tiểu cầu do thuốc, nhiễm trùng huyết,
Cơ thể chúng ta cũng có thể có ít tiểu cầu hơn vì những nguyên nhân sau:
Nhiễm virus (bao gồm thủy đậu, parvovirus, viêm gan C, Epstein-Barr và HIV), Lupus ban đỏ hệ thống (SLE),
Bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL), Giảm tiểu cầu miễn dịch do thuốc, Nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng nặng trong máu. Helicobacter pylori (H. pylori), một loại vi khuẩn trong bệnh loét bao tử. Do thuốc chống đông làm loãng máu.
Ung thư máu như bệnh bạch cầu hoặc ung thư hạch
Một vấn đề với tủy xương của chúng ta, như độc tính do uống quá nhiều rượu
Thiếu vitamin B12 hoặc folate (vitamin B9)
Triệu chứng :
Thông thường, giảm tiểu cầu không có triệu chứng. Nhưng khi tiểu cầu giảm, chúng có thể bao gồm:
Chảy máu, thường xuyên nhất là từ nướu hoặc mũi. Phụ nữ bị giảm tiểu cầu có thể có thời gian nặng hơn hoặc dài hơn hoặc chảy máu đột phá. chúng ta cũng có thể nhìn thấy máu trong nước tiểu và phân..
Các đốm đỏ, phẳng trên da của chúng ta, có kích thước bằng đầu ngón tay. chúng ta thấy những thứ này chủ yếu ở chân và bàn chân của chúng ta, và chúng có thể xuất hiện thành từng đám. Bác sĩ gọi là petechiae hay là đốm xuất huyết.
Các vết nám và vết bầm tím. có thể có những vùng chảy máu lớn dưới da không chuyển sang màu trắng khi chúng ta ấn vào chúng. chúng ta cũng có thể thấy những gì trông giống như những vết bầm tím chúng ta nhận được từ một vết sưng hoặc bị đánh. Chúng có thể có màu xanh hoặc tím và thay đổi thành màu vàng hoặc màu xanh lá cây theo thời gian. Những điều này được gây ra từ bên trong, bởi sự rò rỉ bất ngờ từ các mạch máu nhỏ. Tên y tế cho những thứ này là ban xuất huyết.
Giảm tiểu cầu nặng có thể gây chảy máu nhiều sau chấn thương, chẳng hạn như ngã.
1.1-Chuyển hoá glucid
Sản phẩm cuối cùng của chuyển hoá glucid trong ống tiêu hoá là các monosaccarid như glucose, fructose, galactose trong đó glucose chiếm 80%, chúng được vận chuyển vào tế bào niêm mạc ruột non theo cơ chế vận chuyển tích cực thứ phát nhờ chất mang chung với natri (glucose, galactose) hoặc theo cơ chế khuếch tán thuận hoá (fructose). Các monosaccarid được hấp thu qua ruột, vào máu tĩnh mạch cửa về gan và đi vào các quá trình chuyển hoá ở gan cũng như ở các tế bào khác trong cơ thể nhờ sự vận chuyển của máu trong hệ thống tuần hoàn. Ở gan, một phần glucid được chuyển thành glycogen là dạng dự trữ đường trong cơ thể. Trong cơ thể glucid tồn tại dưới các dạng:
Dạng vận chuyển trong máu : là các monosaccarid như glucose, fructose, galactose nhưng chủ yếu là glucose. chiếm tới 90-95% số lượng monosaccarid vận chuyển trong máu.
Dạng kết hợp: Các glucid có thể kết hợp với các lipid hoặc protid và chúng tham gia vào thành phần cấu tạo của tế bào ở các mô trong cơ thể.
Dạng dự trữ: Glucid được dự trữ dưới dạng glycogen ở gan. Các monosaccarid khi đi qua gan, một phần sẽ được các tế bào gan tổng hợp thành glycogen là dạng dự trữ chính của cơ thể. Khi thiếu hụt glucose trong cơ thể, các tế bào gan lại phân giải glycogen thành glucose để cung cấp cho cơ thể. Glycogen được dự trữ ở gan là chủ yếu, nó còn được dự trữ một phần trong cơ và trong tế bào.
Glucid là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu của cơ thể. 70% năng lượng của khẩu phần ăn là do glucid cung cấp. Glycogen ở gan là kho dự trữ năng lượng của cơ thể và glucid là chất trực tiếp cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động của cơ thể. Các tế bào não và tế bào tim mạch chỉ có thể lấy năng lượng glucose từ glucid.
Công dụng của glucose đối với cơ thể:
Phân giải hoàn toàn một phân tử glucose sẽ giải phóng ra 38 ATP (Adenosin Triphosphat là đơn vị phân tử mang năng lượng, có chức năng vận chuyển năng lượng đến các nơi cần thiết để tế bào sử dụng ) và 420 Kcal dưới dạng nhiệt. Trong quá trình phân giải glucose có thể cung cấp trực tiếp một phần năng lượng cho cơ thể sử dụng thông qua ATP mà không cần qua các chặng trung gian hoặc qua chuỗi hô hấp tế bào vận chuyển các nguyên tử hydro.
Trong cơ thể ngoài vai trò dự trữ và cung cấp năng lượng, glucid còn tham gia vào các cấu tạo của rất nhiều thành phần trong cấu tạo của ARN, có trong nhân của tất cả các loại tế bào, phối hợp với đường trái cây fructose có trong tinh dịch với nồng độ 0,91-5,20 gam/lít, tạo ra acid bảo vệ da là thành phần chính cùng với nước tạo thành dịch ngoại bào, dịch khớp, dịch kính của mắt, vừa có tác dụng dinh dưỡng vừa có tác dụng bôi trơn. tạo ra thành phần mô sụn, thành động mạch, da, van tim, giác mạc.
+Các acid hyaluronic là 1 loại acid bảo vệ da, là thành phần chính cùng với nước tạo thành dịch ngoại bào, dịch khớp, dịch kính của mắt, vừa có tác dụng dinh dưỡng vừa có tác dụng bôi trơn.
+Các condromucoid là thành phần cơ bản của mô sụn, thành động mạch, da, van tim, giác mạc.
+Aminoglycolipid tạo nên chất stroma của hồng cầu.
+Cerebrosid, aminoglycolipid là thành phần chính tạo vỏ myelin của các sợi thần kinh, tạo chất trắng của mô thần kinh.
-Glucid tham gia vào các hoạt động chức năng của cơ thể:
Thông qua việc tham gia vào các thành phần cấu tạo của cơ thể, glucid có vai trò trong rất nhiều chức năng của cơ thể như chức năng bảo vệ, chức năng miễn dịch, chức năng sinh sản, chức năng dinh dưỡng và chuyển hoá, quá trình tạo hồng cầu, có vai trò trong hoạt động của hệ thần kinh, làm nhiệm vụ lưu trữ và thông tin di truyền qua các tế bào và các thế hệ thông qua RNA và DNA.
1.2. Nhu cầu glucid trong cơ thể
Glucid chiếm 2% trọng lượng khô của cơ thể, ở người trưởng thành bình thường, nặng 50 kg, glucid toàn cơ thể nặng khoảng 0,3 đến 0,5 kg.
Nhu cầu glucid thường không được quy định trực tiếp mà dựa vào nhu cầu năng lượng và tỷ lệ năng lượng giữa ba chất dinh dưỡng sinh năng lượng để tính ra. Theo tài liệu của Viện Dinh dưỡng Việt Nam 1994, nhu cầu năng lượng cho trẻ em từ 1-3 tuổi là 1300 Kcal/ngày và của người trưởng thành nam giới là từ 2300-2500 Kcal/ngày, đối với phụ nữ có thai 3 tháng cuối cộng thêm 350 Kcal/ngày, phụ nữ đang cho con bú 6 tháng đầu cộng thêm 550 Kcal/ngày. Trong tổng số Kcal/ngày, năng lượng protid chiếm 12-15%, năng lượng của lipid chiếm 15-20%, phần còn lại là do glucid cung cấp. Như vậy cơ thể được cung cấp năng lượng chủ yếu là từ glucid chiếm 65-70% tổng số Kcal/ngày.
Glucid được cung cấp vào cơ thể thông qua nguồn thức ăn, các chất nhiều glucid thường được dùng như bột gạo tẻ 82,2 gam/100 gam bột, bột gạo nếp 78,8 gam/100gam bột, bột ngô 73,0 gam/100 gam bột, bột mì 71,3 gam/100 gam bột...
1.3. Vai trò trung tâm của glucose trong chuyển hoá glucid
Sản phẩm cuối cùng của glucid trong ống tiêu hoá là monosaccarid trong đó có 80% là glucose. Sau khi hấp thu từ ống tiêu hoá qua ruột về gan, phần lớn fructose và galactose tiếp tục được chuyển thành glucose.
Ở gan, các tế bào gan chứa enzyme có khả năng chuyển đổi giữa các monosaccarid như galactose 1- phosphat, urodin diphosphat glucose, glucose 1-phosphat, đặc biệt chúng chứa một lượng lớn enzyme glucose phosphatase chuyển glucose 6-phosphat thành glucose và gốc phosphat, glucose được đưa vào máu. Như vậy, glucose trở thành sản phẩm cuối cùng của glucid và được máu vận chuyển đến các tế bào của cơ thể. Có khoảng 90 - 95% monosaccarid vận chuyển trong máu là glucose. Toàn bộ quá trình tạo đường mới và phân giải đường ở gan đều qua giai đoạn chuyển hoá của glucose. Từ các monosaccarid các tế bào gan tổng hợp nên glycogen là dạng đường dự trữ của cơ thể, đồng thời nhờ các tế bào gan, nhờ các enzyme thích hợp phân giải glycogen để chuyển thành glucose và được máu chuyển đến khắp các tế bào của cơ thể. Chính vì các lý do trên mà glucose trở thành vai trò trung tâm của chuyển hoá glucid. Khi thừa glucose, cơ thể sẽ dự trữ dưới dạng glycogen, khi thiếu glucose cơ thể huy động từ nguồn dự trữ và tổng hợp đường mới từ các acid amin và acid béo.
Gan và một số hormon như insulin, glucagon, adrenalin đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì nồng độ glucose máu.
1.4. Điều hoà chuyển hoá glucid
Có hai cơ chế điều hoà ở mức toàn cơ thể đó là cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch.
- Cơ chế thần kinh điều hoà chuyển hoá glucid:
Nhiều thực nghiệm đã chứng minh ảnh hưởng của hệ thần kinh đối với chuyển hoá glucid. Cắt bỏ não hoặc phá huỷ sàn não thất IV gây tăng đường huyết. Vùng dưới đồi cũng được chứng minh có liên quan với chuyển hoá glucid. Nhịn đói, stress, xúc cảm có tác động lên chuyển hoá glucid có lẽ là qua vùng dưới đồi. Người ta cũng đã gây được phản xạ có điều kiện có ảnh hưởng lên chuyển hoá glucid. Ví dụ saccarin có vị ngọt có thể gây bài tiết insulin như khi ăn đường. Khi nồng độ glucose trong máu giảm tác dụng trực tiếp lên vùng dưới đồi kích thích thần kinh giao cảm làm tăng bài tiết adrenalin và noradrenalin gây tăng đường huyết. Khi đường huyết tăng cao quá mức điều chỉnh của các yếu tố thần kinh và thể dịch thì thận tham gia vào cơ chế điều hoà đường huyết bằng cách thải glucose ra nước tiểu, đây là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh đái tháo đường.
- Cơ chế thể dịch điều hoà chuyển hoá glucid: Chuyển hoá glucid được điều hoà chủ yếu bởi hai hệ thống hormon, một hệ thống làm tăng đường huyết và một hệ thống làm giảm đường huyết.
+ Các hormon làm tăng đường huyết gồm GH của tuyến yên, T3- T4của tuyến giáp, cortisol của tuyến vỏ thượng thận, adrenalin của tuyến tủy thượng thận và glucagon của tuyến tụy nội tiết.
+ Hormon làm giảm đường huyết là insulin của tuyến tụy nội tiết.
1.5. Rối loạn chuyển hoá glucid
Rối loạn chuyển hoá glucid có thể biểu hiện bằng hạ đường huyết hoặc tăng đường huyết.
- Hạ đường huyết: Khi mức đường huyết thấp dưới mức 50mg% là hạ đường huyết. Nguyên nhân có thể do đói, rối loạn hấp thu hoặc do ưu năng tụy nội tiết gây bài tiết quá nhiều insulin.
Biểu hiện hạ đường huyết: Bệnh nhân có thể có cảm giác đói, toát mồ hôi, tim đập nhanh, nếu không cấp cứu kịp thời bệnh nhân có thể hôn mê và chết.
- Tăng đường huyết: Đường huyết lúc đói vượt quá 6,7 mmol/lít (140 mg/dl) là tăng đường huyết, nguyên nhân thường là do bệnh lý của hệ nội tiết như nhược năng tuyến tụy, ưu năng tuyến yên, ưu năng tuyến thượng thận.
Các trường hợp bệnh lý làm tăng đường huyết thường dẫn đến bệnh đái tháo đường.Bệnh đái tháo đường có hai thể là thể phụ thuộc insulin và thể không phụ thuộc insulin.
+ Thể phụ thuộc insulin (đái tháo đường typ I) thường gặp ở người trẻ có các triệu chứng lâm sàng như ăn nhiều, đái nhiều, uống nhiều và gầy nhiều.
+ Thể không phụ thuộc insulin (đái tháo đường typ II) triệu chứng thường âm thầm hơn. Thể này thường gặp ở người lớn tuổi và kháng lại insulin ngoại sinh.
+ Đái tháo đường ở giai đoạn cuối của cả hai thể (giai đoạn nặng) nếu không được điều trị kịp thời thường gây nên các triệu chứng:
*Ăn nhiều, đái nhiều, uống nhiều, gầy nhiều.
*Đường huyết tăng cao có khi tới 300 – 1200 mg%.
*Đường niệu.
*Na trong máu giảm do các thể cetonic bài tiết kéo theo Na.
*Hơi thở có mùi aceton.
Định lượng đường huyết và đường niệu là các xét nghiệm rất chắc chắn để xác định mức độ đường huyết bình thường hay có rối loạn, giảm hay tăng đường huyết, đặc biệt là ở giai đoạn sớm của bệnh. Khi mức độ bệnh đã nặng, ngoài việc xét nghiệm đường thì có nhiều triệu chứng khác có thể nhận biết được như hơi thở có mùi aceton, đi tiểu xong thấy có hiện tượng kiến bâu vào nước tiểu.